Thuốc chống trầm cảm và rối loạn lưỡng cực

Rối loạn lưỡng cực là gì?

Rối loạn lưỡng cực là một tình trạng gây ra sự thay đổi đột ngột trong tâm trạng, từ trầm cảm sang hưng cảm. Trong giai đoạn hưng cảm (giai đoạn hưng cảm), một người bị rối loạn lưỡng cực có thể có tâm trạng cực kỳ cao và suy nghĩ đua đòi. Họ có thể dễ bị kích thích và nói rất nhanh và lâu. Trong giai đoạn hưng cảm, một người bị rối loạn lưỡng cực có thể thực hiện các hành vi nguy cơ, chẳng hạn như tiêu quá nhiều tiền hoặc quan hệ tình dục không an toàn.

Sáu loại rối loạn lưỡng cực được liệt kê trong “Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần” (DSM-5), được xuất bản bởi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ:

  • rối loạn lưỡng cực I
  • rối loạn lưỡng cực II
  • rối loạn cyclothymic
  • rối loạn lưỡng cực do chất / thuốc và các rối loạn liên quan
  • rối loạn lưỡng cực và các rối loạn liên quan do một tình trạng y tế khác
  • rối loạn lưỡng cực không xác định và các rối loạn liên quan

Một người bị rối loạn lưỡng cực I có các giai đoạn hưng cảm kéo dài ít nhất bảy ngày hoặc phải nằm viện. Sau đó có thể là các giai đoạn trầm cảm kéo dài từ hai tuần trở lên. Rối loạn lưỡng cực II là khi một người có sự kết hợp giữa các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm, với các giai đoạn hưng cảm không nghiêm trọng (hypomania) như trong rối loạn lưỡng cực I. Rối loạn chu kỳ là khi một người có nhiều giai đoạn với các triệu chứng hưng cảm hoặc trầm cảm, mà không có cường độ hưng cảm hoặc trầm cảm như trong rối loạn lưỡng cực. Rối loạn lưỡng cực do chất / thuốc gây ra do thuốc kê đơn hoặc lạm dụng. Một số loại thuốc có thể gây hưng cảm, bao gồm steroid (như dexamethasone) hoặc cocaine. Rối loạn lưỡng cực do một tình trạng y tế khác xảy ra khi một người nào đó trở nên hưng cảm do một căn bệnh khác. Nó có thể xảy ra vài tuần trước khi bệnh khác được chẩn đoán. Các bệnh có thể gây ra điều này bao gồm bệnh Cushing, bệnh đa xơ cứng, đột quỵ hoặc chấn thương sọ não. Các rối loạn lưỡng cực không xác định và các rối loạn liên quan có thể là chẩn đoán khi hình ảnh về sự thay đổi tâm trạng của một người nào đó không hoàn chỉnh hoặc bác sĩ không có đủ dữ kiện để chẩn đoán cụ thể hơn.

Không thể chữa khỏi rối loạn lưỡng cực loại I, rối loạn lưỡng cực loại II và bệnh rối loạn tâm thần kinh máu nhưng bác sĩ có thể điều trị chúng. Rối loạn lưỡng cực do các chất hoặc thuốc có thể cải thiện hoặc biến mất khi ngừng thuốc hoặc chất gây ra chúng. Rối loạn lưỡng cực do một tình trạng y tế khác có thể cải thiện hoặc ổn định khi tình trạng cơ bản được điều trị.

Điều trị bệnh lưỡng cực có thể phức tạp và bác sĩ có thể kê một số loại thuốc khác nhau trước khi bệnh nhân kiểm soát tâm trạng tốt hơn.

Thuốc chống trầm cảm là gì?

Trầm cảm trong rối loạn lưỡng cực có thể trầm trọng và thậm chí có thể gây ra ý định tự tử. Trong khi thuốc chống trầm cảm điều trị trầm cảm, một người bị rối loạn lưỡng cực cũng trải qua các cơn hưng cảm. Vì lý do này, thuốc chống trầm cảm không phải lúc nào cũng là phương pháp điều trị hiệu quả nhất.

Thuốc chống trầm cảm làm tăng lượng chất dẫn truyền thần kinh trong não. Ví dụ bao gồm serotonin, norepinephrine và dopamine. Đây là những chất hóa học giúp cải thiện tâm trạng của một người, giảm cảm giác chán nản. Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cho rối loạn lưỡng cực đã gây tranh cãi vì thuốc chống trầm cảm đã gây ra các cơn hưng cảm ở một tỷ lệ nhỏ những người bị rối loạn lưỡng cực.

Nghiên cứu cho thấy gì liên quan đến thuốc chống trầm cảm và rối loạn lưỡng cực?

Hiệp hội Quốc tế về Rối loạn lưỡng cực (ISBD) đã thành lập một nhóm đặc nhiệm để nghiên cứu việc sử dụng thuốc chống trầm cảm ở những người bị rối loạn lưỡng cực. Các thành viên đã xem xét hơn 173 nghiên cứu về rối loạn lưỡng cực và thuốc chống trầm cảm và nhận thấy rằng họ không thể giới thiệu một cách dứt khoát thuốc chống trầm cảm để điều trị rối loạn lưỡng cực.

Các phát hiện quan trọng khác bao gồm các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) và bupropion ít gây ra các cơn hưng cảm hơn các loại thuốc khác, chẳng hạn như thuốc chống trầm cảm ba vòng. Lực lượng đặc nhiệm đã công bố những phát hiện của họ trong Tạp chí Tâm thần học Hoa Kỳ.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Brown đã trình bày một nghiên cứu về rối loạn lưỡng cực và thuốc chống trầm cảm tại cuộc họp năm 2013 của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu không tìm thấy tỷ lệ tái khám ở bệnh viện cao hơn ở những bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm, so với những người không dùng. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu 377 bệnh nhân và phát hiện ra rằng 211 bệnh nhân quay lại bệnh viện trong vòng một năm sau khi xuất viện.

Thuốc chống trầm cảm có được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực không?

Thuốc chống trầm cảm thường không phải là loại thuốc đầu tiên bác sĩ kê đơn để điều trị rối loạn lưỡng cực. Nhóm thuốc đầu tiên để điều trị rối loạn lưỡng cực thường là thuốc ổn định tâm trạng, chẳng hạn như lithium. Đôi khi bác sĩ sẽ kê đơn thuốc ổn định tâm trạng và thuốc chống trầm cảm cùng nhau. Điều này làm giảm nguy cơ xuất hiện các giai đoạn hưng cảm. Thuốc ổn định tâm trạng không phải là loại thuốc duy nhất được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực.

Thuốc chống động kinh cũng được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực. Mặc dù được phát triển để điều trị co giật, những loại thuốc này ổn định màng thần kinh và ngăn chặn việc giải phóng một số chất dẫn truyền thần kinh, giúp bệnh nhân bị rối loạn lưỡng cực. Những loại thuốc này bao gồm divalproex (Depakote), carbamazepine (Tegretol), lamotrigine (Lamictal) và oxcarbazepine (Trileptal).

Một nhóm thuốc khác được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực là thuốc chống rối loạn tâm thần không điển hình, như olanzapine (Zyprexa) và risperidone (Risperdal). Những loại thuốc này ảnh hưởng đến một số chất dẫn truyền thần kinh trong não, bao gồm cả dopamine, và thường khiến mọi người buồn ngủ.

Nhiều bác sĩ kết hợp liều lượng nhỏ thuốc chống trầm cảm với thuốc ổn định tâm trạng để điều trị rối loạn lưỡng cực. Một số loại thuốc chống trầm cảm được sử dụng thường xuyên hơn những loại khác.

Thuốc chống trầm cảm được sử dụng cho chứng rối loạn lưỡng cực

Thuốc chống trầm cảm chưa được nghiên cứu kỹ trong điều trị rối loạn lưỡng cực, nhưng các bác sĩ tâm thần và các nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe tâm thần khác đôi khi kê đơn chúng kết hợp với các loại thuốc khác để điều trị rối loạn lưỡng cực. Lực lượng đặc nhiệm ISBD khuyến cáo các bác sĩ nên kê đơn các loại thuốc chống trầm cảm này trước để điều trị rối loạn lưỡng cực:

  • thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI),nhu laCelexa, Lexapro, Paxil, Prozac và Zoloft
  • Bupropion,chẳng hạn như Wellbutrin

Những loại thuốc chống trầm cảm này có nguy cơ gây hưng cảm cao hơn, vì vậy chúng chỉ được sử dụng nếu các loại thuốc chống trầm cảm khác không có tác dụng đối với bệnh nhân:

  • chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRI), chẳng hạn như Cymbalta, Effexor và Pristiq
  • thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs),nhu laElavil, Pamelor và Tofranil

Tác dụng phụ nào mà thuốc chống trầm cảm có thể gây ra?

Thuốc chống trầm cảm có thể gây ra một số tác dụng phụ khác nhau. Bao gồm các:

  • sự kích động
  • đau đầu
  • buồn nôn
  • buồn ngủ
  • giảm ham muốn tình dục

Uống thuốc thường xuyên thường là một thách thức đối với những người đang vật lộn với chứng rối loạn lưỡng cực. Một ngày nào đó họ có thể cảm thấy “bình thường” hoặc ổn và cảm thấy không cần dùng thuốc nữa. Hoặc họ có thể cảm thấy buồn hoặc quá mức đến mức không thể uống thuốc. Ngừng đột ngột thuốc chống trầm cảm có thể làm cho các triệu chứng lưỡng cực nặng hơn. Những người bị rối loạn lưỡng cực không nên ngừng dùng thuốc chống trầm cảm trừ khi bác sĩ yêu cầu.

Kết luận về thuốc chống trầm cảm và rối loạn lưỡng cực

Thuốc chống trầm cảm là một lựa chọn để điều trị rối loạn lưỡng cực, nhưng chúng thường không phải là loại thuốc duy nhất được sử dụng. Chúng chủ yếu được kê đơn với các loại thuốc khác, chẳng hạn như thuốc ổn định tâm trạng hoặc thuốc chống loạn thần. Điều này có thể ngăn ngừa các giai đoạn hưng cảm và giúp mọi người kiểm soát tâm trạng tốt hơn.

Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bài viết mới